
Tên gọi ” an cung ngưu hoàng hoàn” hiện nay được bào chế từ cách đây khoảng 380 năm do danh y Từ Huy Thông. Đây là ngự y chuyên chăm lo cho vị vua cuối đời nhà Minh – Hoàng đế Sùng Trinh. Sau đó, bài thuốc quý này được vị ngự y truyền cho các thầy lang của vùng TengChong.
Khi chiến tranh xảy ra, triều đại nhà Minh bị rơi vào tay nhà Thanh, tất cả các tài liệu y học của nhà Minh đều bị chiếm đoạt và được các ngự y thời đó khai thác công thức, truyền lại cho con cháu. Khi đến triều đại nhà Thanh, an cung ngưu hoàng hoàn được giao bí quyết cho Nhà thuốc Đồng Nhân Đường để chăm sóc sức khỏe cho các vị vua.
Thành phần của an cung ngưu hoàng hoàn:
Trong cuốn ” Ôn bệnh điều biện” có ghi:” uất kim, ngưu hoàng, tê giác, hoàng liên, chu sa, hùng hoàng, sơn chi. Tất cả lấy mỗi loại một lạng. Mai phiến, xạ hương, mỗi loại lấy hai đồng rưỡi. Chân châu 5 đồng,Vàng quỳ làm áo, Hoàng cầm một lạng.
Tất cả những thứ trên nghiền bột thật nhỏ, luyện với mật già làm thành viên. Mỗi viên một đồng cân, lấy vàng quỳ làm áo, bọc trong sáp”. Sách cũng có chú thích thêm ” Uống mỗi lần 1 viên, mạch hư thì uống với nhân sâm thang, mạch thực thì uống với Ngân hoa Bạc hà thang”. Mặc dù tê giác là thành phần chính nhưng từ những năm 1990 của thế kỉ trước, thành phần tê giác đã được thay thế bằng bột sừng trâu do tê giác được đưa vào sách bảo vệ động vật quý hiếm.
Theo lý luận của Ngô Đường, bài thuốc này chủ yếu chú trọng vào phương pháp chứ không câu nệ vào phương dược. Ông giải thích bài thuốc an cung ngưu hoàng hoàn này như sau: ” lấy hương thơm để xua tan bẩn đục mà lợi cho các khiếu, lạnh mặn để giữ thận thủy mà yên tâm thể, lạnh đắng khai thông hỏa phủ mà giải tỏa tâm dụng.
– Ngưu hoàng: khai thông thần tâm chủ.
– Tê giác: chủ trì trăm thứ độc, tà quỷ chướng khí.
– Chân châu… khai thông thần minh, cùng với Tê giác bổ thủy cứu hỏa. Uất kim có hương thơm của cỏ.
– Mai phiến có hương thơm của cây
– Hùng hoàng có hương thơm của đá
– Xạ hương có hương thơm của tinh huyết, hợp bốn loại hương thơm đó để dùng, khiến cho tà nhiệt ôn độc vốn bế tắc sâu ở trong khu vực quyết âm nhất loạt từ trong thấm ra, mà tà bẩn tự tiêu, thần minh có thể khôi phục.
– Hoàng liên giải tỏa tâm hỏa
– Chi tử giải tỏa hỏa của tâm và tam tiêu
– Hoàng cầm giải tỏa hỏa của đởm, phế, khiến cho tà hỏa theo các hương thơm mà nhất loạt tiêu tan.
– Chu sa bồi bổ tâm thể, giải tỏa tâm dụng, cùng với vàng quỳ làm giáng đờm mà giữ cho bền chắc…”.
Công dụng của an cung ngưu hoàng hoàn:
Nói về công dụng của an cung ngưu hoàng hoàn, trong nguyên văn của sách ” Ôn bệnh điều biện” có ghi là ” Ôn bệnh thái âm…hôn mê nói sảng thì lấy Thanh cung thang để chữa, ngưu hoàng hoàn…cũng chữa được”. Theo y dược học cổ truyền, an cung ngưu hoàng hoàn có công dụng chính là:
– Thanh nhiệt giải độc
– Trấn kinh khai khiếu, chuyên trị ôn bệnh.
– Trừ đàm, hạ nhiệt, giải độc, trấn tĩnh.
– Chống co giật do sốt cao gây nên.
– Chống viêm tiêu nhũng, hạ huyết áp người bệnh.
– Phục hồi tế bào bị tổn thương do hôn mê, rối loạn ngôn ngữ, bại liệt do đột quỵ não.
Trong nhiều thế kỉ trước, an cung ngưu hoàng hoàn là một trong ba phương thuốc khai trọng yếu (lương khai tam bảo hay ôn bệnh tam bảo), thường được nhắc đến cùng với Tử tuyết đan và Cục phương Chí bảo đan, gọi là Lương khai Tam bảo đan, tức là ba loại thuốc viên quý dùng đầu tay cho các trường hợp ôn bệnh nguy kịch, có “hôn mê, nói sảng”, an cung ngưu hoàng hoàn có những khả năng thanh hóa đàm nhiệt nội hãm tâm bào, nhiệt thanh đàm hóa thì tâm thần tất sẽ an, vì thế mà gọi là “an cung”.
Do có tác dụng thiên về thanh nhiệt, giải độc nên an cung ngưu hoàng hoàn thường được dùng cho các trường hợp nhiễm trùng. Vào cuối những năm 1980, an cung ngưu hoàng hoàn được các bệnh viện Trung Quốc chỉ định chính là viêm não, viêm màng não với các biểu hiện sốt cao, rối loạn ý thức, rối loạn vận động.
Trong một số trường hợp, an cung ngưu hoàng hoàn còn được dùng cho những bệnh nhân bị hôn mê gan. Về tác dụng của tai biến mạch máu não, an cung ngưu hoàng đã được khẳng định về tác dụng dựa trên các quan sát lâm sàng từ đầu những năm 1990 với tỷ lệ hiệu quả được báo cáo từ 85% đến 100%.
Tác dụng dược lý
Nhiều báo cáo của các thầy thuốc Trung Quốc nhận thấy ACNHH có hiệu quả cao trong điều trị tai biến mạch máu não cũng như một số bệnh não nhiễm trùng. Tuy vậy cho đến nay chưa hề có bất kỳ thử nghiệm lâm sàng đối chứng chặt chẽ nào về ACNHH để có thể đưa ra bằng chứng lâm sàng thuyết phục về tác dụng của ACNHH đối với những căn bệnh này. Ví dụ như theo bài đăng trên tạp chí Trung y Trung dược tháng 11/2007 của tác giả Lôi Lợi Phong và Súy Gia Trung trình bày một nghiên cứu trên 48 trường hợp bệnh nhân xuất huyết não có tiền sử tăng huyết áp, trong đó 23 trường hợp điều trị theo phác đồ chuẩn phổ biến hiện nay, còn 25 trường hợp thì được dùng thêm ACNHH (1 viên/ngày trong 5 ngày, qua ống thông dạ dày) bên cạnh phác đồ chuẩn. Kết quả tỷ lệ điều trị có hiệu quả ở nhóm ACNHH là 80%, trong khi ở nhóm phác đồ chuẩn chỉ là 47,8%.
Từ đầu những năm 2000, nhiều thực nghiệm đã được tiến hành trên động vật để tìm hiểu cơ chế tác dụng của ACNHH trong một số bệnh lý như xuất huyết não, thiếu máu não… Gần đây nhất là một nghiên cứu công bố trên tạp chí Journal of Ethnopharmacology ngày 28/5/2014, theo đó ACNGG được sử dụng cho chuột thực nghiệm bị tắc động mạch não giữa với liều 0,125 và 0,25 g/kg/ngày thì đều làm giảm mức độ nặng triệu chứng thần kinh, giảm diện tích nhồi máu, giảm tổn thương tế bào và giảm chết tế bào theo chương trình khi so với các con chuột đối chứng. ACNHH làm đảo ngược được rối loạn bệnh lý do thiếu máu não gây ra, cụ thể là làm tăng biểu lộ Bcl-2 và giảm biểu lộ Bax và caspase-3 là những tác nhân điều hòa quá trình chết theo chương trình của tế bào. Mặc dù các tác giả nghiên cứu thực nghiệm này kết luận rằng ACNHH có tác dụng bảo vệ thần kinh và tác dụng này nhiều khả năng liên quan đến việc điều hòa quá trình chết theo chương trình của tế bào, đây cũng vẫn chỉ là nghiên cứu thực nghiệm trên chuột, và liều dùng ACNHH trên chuột vẫn hơi cao hơn so với liều dùng trên người. Viên ACNHH trên thị trường hiện nay thường được bào chế nặng 3g và sử dụng 1 viên mỗi ngày thì liều dùng trên người trung bình khoảng 0,05-0,06 g/kg/ngày sẽ thấp hơn rất nhiều so với liều thử nghiệm nêu trên.
Thành phần độc tính
Trong Đông y có nhiều vị thuốc có độc tính cần phải sử dụng thận trọng. Đã từ lâu những quan ngại về độc tính của ACNHH thúc đẩy nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này. Trong thành phần nguyên thuỷ của ACNHH có chu sa (muối sulfua thủy ngân HgS) và hùng hoàng (muối sulfua asenAs4S4, As2S2), mỗi vị thuốc này chiếm 10% trọng lượng viên thuốc. Có thể tính toán thấy hàm lượng thủy ngân và asen trong ACNHH là không hề nhỏ.
Trên tạp chí Experimental Biology and Medicine số 236 năm 2011, nhóm tác giả Trung Quốc và Mỹ đã công bố một nghiên cứu thực nghiệm trên chuột về độc tính trên thận của ACNHH. Khi so sánh chu sa, hùng hoàng và ACNHH (ở liều cao hơn tới 6 lần so với liều lâm sàng) với các muối thủy ngân khác là HgCl2 (1/10 chu sa), MeHg (1/100 chu sa) và các muối asen khác là NaAsO2 (1/100 hùng hoàng) hoặc Na2HAsO4 (1/50 hùng hoàng). Kết quả theo dõi chuột dùng chu sa, hùng hoàng và ACNHH cho thấy hầu như không có độc tính gì trên thận, thấp hơn rất nhiều khi so với các muối thủy ngân và asen khác dù chỉ sử dụng bằng một phần rất nhỏ so với chu sa, hùng hoàng và ACNHH. Lý giải về độc tính rất thấp trên thận của các thuốc này chính là ở độ hòa tan trong nước và hấp thu rất thấp của chu sa và hùng hoàng, khiến cho chỉ có rất ít kim loại tích lũy tại cơ quan đích. Những quy định điều chỉnh về độc chất hiện nay chỉ quan tâm đến tổng lượng thủy ngân và asen mà chưa chú ý đến đặc thù của từng loại hợp chất, trong đó có những hợp chất được sử dụng làm thuốc.
Về nguy cơ độc tính trên gan của thành phần thủy ngân trong ACNHH, trên tạp chí Regulatory Toxicology and Pharmacology số ra tháng 6/2011 đã trình bày một thực nghiệm đánh giá độc tính gan trên chuột dùng chu sa, ACNHH so với các muối thủy ngân MeHg và HgCl2. Kết quả là độc tính trên gan của chu sa và ACNHH hầu như không đáng kể, thấp hơn nhiều khi so sánh với các muối thủy ngân khác. Một lần nữa các tác giả lại nhấn mạnh việc sử dụng tổng hàm lượng thủy ngân để đánh giá độc tính của ACNHH nói riêng, các thuốc Đông y có chứa chu sa nói chung, có vẻ là không phù hợp.
Lưu ý khi dùng các loại an cung ngưu hoàng hoàn:
Mặc dù có tên gọi giống nhau nhưng hai loại An cung ngưu hoàng hoàn Trung Quốc và An cung ngưu hoàng hoàn Hàn Quốc lại có những công dụng không giống nhau. Do đó, khi sử dụng hai sản phẩm này, bạn cũng cần lưu ý đến một số điểm như sau:
– Công dụng của thuốc An cung ngưu hoàng hoàn Trung Quốc là chữa các bệnh như:
+ Hôn mê, trúng phong, bất tỉnh, nhồi máu não.
+ Giúp phục hồi toàn diện một số di chứng của tai biến mạch máu não như: méo miệng, liệt nửa người sau khi bị đột quỵ.
+ Thanh nhiệt, khai khiếu, đặc biệt có tác đụng đối với một số trường hợp bệnh nhân bị sốt cao, nhiễm độc nặng, co giật, hôn mê như: viêm màng não, viêm não…
+ Dùng để cấp cứu khẩn cấp cho một số trường hợp bị trở ngại về ý thức như: bị hôn mê, sốt cao, co giật, không thở được.
+ Phục hồi một số các di chứng do đột quỵ để lại như: bán thân bất tọai, nói ngọng, tiểu tiện không tự chủ do rối loạn cơ tròn…
– Công dụng của An cung ngưu hoàng hoàn Hàn Quốc ( hay còn gọi là Vũ Hoàng Thanh Tâm) chủ yếu là:
+ Ngăn chặn một số biểu hiện nhe: tinh thần hoảng hốt, lo lắng hay quên, đầu mờ váng óc, hồi hộp, vui giận bất thường.
+ Giúp bồi bổ cơ thể, thoải mái tinh thần, ngủ ít, hay bị mê sảng.
+ Phòng ngừa và ngăn chặn một số chứng bệnh về tai biến mạch máu não do bị bệnh cao huyết áp và xơ cứng động mạch.
+ Phục hồi các di chứng do tai biến mạch máu não gây ra.
+ Sản phẩm này hoàn toàn không có tác dụng điều trị vì nó chỉ là thực phẩm chức năng.
Đối tượng dùng an cung ngưu hoàng hoàn
Theo ghi chép của sách Ôn bệnh điều biện, an cung ngưu hoàng hoàn dùng để ” kiêm chữa đờ người đột ngột hôn mê,…trúng tà bất tỉnh, người lớn trẻ em co quắp liệt người do nhiệt…”. Trường hợp người lớn ở thể nặng, ngày dùng 3 lần, thể thực hai lần. Trường hợp trẻ nhỏ, uống ba lần nửa viên, không biết thì uống hai lần nửa viên.
Chống chỉ định khi dùng
– Không dùng quá liều chỉ định. Thận trọng với người suy thận.
– Do có chứa các thành phần như: sừng trâu, ngưu hoàng, xạ hương…là những vị thuốc hoàn tán, có tính hàn ( lạnh) nên tuyệt đối không dùng được cho những người bệnh ở thể hư hàn ( thân nhiệt giảm).
– Không dùng được cho những trường hợp: xuất huyết não, viêm não thể thoát chứng và thể chảy máu vào não thất của tai biến mạch máu não; phụ nữ có thai, cho con bú…